dimanche 9 août 2015

TOÀN TẬP HẠ LONG ẢNH CỦA LIÊN K16-17 KHOA PHÁP


Xem clip tại đây
Một chuyến đi rất hay và rất đẹp. Những ai chưa đi thì ngậm ngùi, âm thầm tiếc nuối. Những ai đi rồi mong được đi lại lần sau. Một chuyến đi xuất phát từ nơi rồng cất cánh (Thăng Long). Tới nơi rồng hạ cánh (Hạ Long), đến cả ông trời cũng phải nghiêng mây che nắng, té nước cho sạch đường đi.
Liên hai khóa học 16 và 17 Khoa Pháp, Trường Đại học Sư Phạm Ngoại ngữ, viết tắt là Liên K16-17 Pháp, cụm từ này nghĩa rất hay, mới xuất hiện trong từ điển (CHÉM tí). Tần suất xuất hiện nhiều nhất trong suốt tuần vừa rồi. K16 nhập trường ngày 18 tháng 10 năm 1982 và ra trường tháng 6 năm 1987. K17 nhập trường tháng 10 năm 1983 và ra trường tháng 6 năm 1988.
2K nối tiếp nhau nhập trường và ra trường có nhiều điểm chung. Đó là chung trường, lớp, chung thầy, cô, chung bạn bè, chung phòng ngủ (nội trú) và cả giáo trình học tập. 2K có sự gắn kết với nhau rất chặt chẽ kể từ ngày đầu nhập trường, trong 5 năm học tập và đến tận bây giờ, sau 30 năm. Họ vẫn thường xuyên liên hệ, gặp gỡ nhau chia xẻ tình cảm và thông tin. Một lớp gặp mặt nhau đã khó, 1 K lại càng khó hơn thế mà đây là Liên 2K thì chắc không dễ chút nào ! Ai ai cũng tưởng là khó ấy thế mà thành công. Chuyến đi Hạ Long này là thành công bước đầu cho cả các chuỗi bước tiếp theo. K16-17 sẽ là địa chỉ dễ nhớ và quen thuộc cho tất cả những ai yêu quí 2K chúng tôi. Hy vọng rằng các bạn chưa có dịp tham gia lần này thì sẽ tham gia lần sau và Liên K16-17 sẽ là một cầu nối vững chắc cho tất cả chúng ta. Và sẽ tường xuyên có chuyến đi, những hoạt động đầy ấn tượng.










Album này là của bạn. Mời các bạn vào xem ảnh và tải ảnh yêu thích !

NVT

mercredi 18 février 2015

CHÚC MỪNG NĂM MỚI - 2015

Nguyễn Văn Trường xin kính chúc các thầy cô giáo và tất cả các bạn đồng khóa, đồng khoa:

Mạnh khỏe, Hạnh phúc đón xuân vui cùng gia đình.

Một năm 2015 đạt nhiều thành tích cao !

mercredi 19 novembre 2014

CHÚC MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20-11



Bancu - truongxua K16 Khoa Pháp xin kính chúc các thầy, cô và tất cả các bạn đồng Khóa (K16), đồng Khoa Pháp nhân dịp Ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 MẠNH KHỎE - HẠNH PHÚC VÀ ĐẠT NHIỀU THÀNH TÍCH CAO TRONG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY !

mercredi 25 juin 2014

ĐẠI HỘI LẦN II K16 KHOA PHÁP (1982-1987)

Sáng chủ nhật, 22 tháng 6 vừa qua, K16 Khoa Pháp (1982-1987)  lại vui mừng tề tựu tại Hà Nội sau định kỳ hai năm một lần. Năm nay cũng giống như năm trước, các nhóm ở xa từ các tỉnh Quảng Ninh, Nam Định, Hưng Yên, Ninh Bình về từ chiều thứ bảy. Nhóm Hà Nội chúng tôi đón tiếp và mời ăn tối tại một nhà hàng có mặt tiền nhìn sang rừng cây lung linh huyền ảo, in trên mặt hồ thơ mộng. Ai cũng vui mừng, phấn khởi tay bắt mặt mừng, nhiều người vẫn còn âm hưởng từ kỳ họp trước kể chuyện huyên náo.
 Bữa tối thứ bảy đón tiếp các bạn ở xa
Lần họp này vui hơn có thêm bạn Trương Hải Định từ Sài Gòn bay ra và cả khóa vui mừng đón được các thầy cô chủ nhiệm năm xưa và một số thầy cô yêu quý K16.
Các thầy cô chụp ảnh lưu niệm
Thầy trò thực sự cảm động khi gặp lại nhau. Nhiều người trong chúng tôi có tới gần 30 năm không gặp các thầy, cô kể từ khi ra trường. Thầy Canh Tân đã bước sang tuổi 80, thầy Phan Kế Cường cũng cập kê tuổi ấy. Các thầy cảm động nói: "nhờ các em, chúng tôi hôm nay cũng mới gặp nhau". Thầy Nguyễn Thiện Tráng vừa phải trải qua cuộc vật lộn vô cùng ác liệt để chiến thắng cơn bạo bệnh cũng đến vui cùng chúng tôi với tâm trạng của người chiến thắng.
Các thầy cô nói chuyện vui vẻ
Thầy Khuê - cô vân Dung, cặp đôi thầy cô đáng kính của sinh viên K16 nói riêng và của cả Khoa Pháp nói chung nhanh nhẹn, tươi vui đến bắt tay chào hỏi từng nhóm sinh viên. Thầy Oánh, cô Hòa, cô Phương có vẻ trẻ hơn tuổi rất nhiều, hòa trong đám sinh viên hỏi thăm, nói chuyện với từng người.
Thầy Oánh, cô Hòa, cô Phương vui tươi hòa trong các nhóm sinh viên
Sau gần 30 năm ra trường, các thầy, các cô - những "Người lái đò" năm xưa chắc chắn không thể nhớ hết từng người, nhưng cũng chắc chắn không quên những "chuyến đò" đặc biệt và những "khách đò cá biệt" sang sông đã từng để lại dấu ấn khó phai, nay đang được gợi nhớ qua từng miền ký ức của K16 chúng tôi.
 Những kỷ niệm xưa đang được gợi nhớ qua từng câu chuyện
Những kỷ niệm xưa đang được gợi nhớ qua từng miền ký ức
Hàng ngồi,từ phải sang: các thầy Phan Kế Cường, Bùi NGọc Oánh, Nguyễn Thiện Tráng
Hàng đứng, từ phải sang: các thầy Nguyễn Thanh Khuê, Nguyễn Canh Tân, các cô Bùi Thị Hòa, Nguyễn Vân Dung, Nguyễn Thị Phương
 
Các thầy cô và chúng tôi 
Những tấm hình năm xưa chụp từ trong khu nội trú với những khung giường sắt hai tầng làm nơi sinh hoạt cộng đồng thật ấn tượng, với những mái đầu tóc để dài, bù xù, đôi dép tổ ong được xem là mốt của sinh viên một thời khốn khó, đến những tấm hình các thầy, các cô cùng chúng tôi chụp trong lớp học hay giữa khu giảng đường khoa Pháp... Tất cả đã gợi nhớ cho mỗi người một kỷ niệm riêng, để mỗi người nhận ra mình năm xưa cứ ngờ ngợ mà cười phá lên thật vui tươi, thích thú.
 K16 với các thầy cô trong ngày Hội Khoa Pháp (2012)

 K16 với các thầy cô trong ngày Hội Khoa Pháp (2012)
Tất cả các thầy, cô và chúng tôi vừa vui liên hoan, vừa xem những đoạn clip ghi lại những hoạt động của K16 xưa và nay thật say đắm. Những hình ảnh, những hoạt động cũ - mới của các thầy, cô và tập thể K16 lồng ghép vào nhau tạo nên một K16 đẹp mãi và chứa chan bao tình thầy trò.
Nguyễn Văn Trường
Một số hình ảnh khác

mercredi 29 janvier 2014

CHÚC MỪNG NĂM MỚI - BONNE ANNÉE - HAPPY NEW YEAR - 2014

Bancu-Truongxua K16 Khoa Pháp kính chúc các thầy cô giáo
và tất cả các bạn đồng khóa, đồng khoa
Mạnh khỏe, Hạnh phúc đón xuân vui cùng gia đình
Một năm đạt nhiều thành tích cao !

Bancu-Truongxua

mardi 19 novembre 2013

samedi 9 février 2013

CHÚC MỪNG XUÂN QUÝ TỴ - 2013




Nhân dịp năm mới – 2013 và đón xuân Quý Tỵ, Bancu – Truongxua K16 Khoa Pháp xin gửi tới các thầy cô, các bạn cùng gia đình lời chúc năm mới - 2013
MẠNH KHOẺ - AN KHANG – HẠNH PHÚC VÀ THÀNH CÔNG !

jeudi 15 novembre 2012

samedi 3 novembre 2012

MÓN QUÀ THÁNG 11

                                                                                            
Lý- Halong

Thư mời của Hiệu trưởng trường ĐHNN – ĐHQG Hà Nội và Trưởng khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Pháp đến trường làm cho không khí của phòng tiếng pháp (salle francophone) trường THPT Hòn Gai – Hạ Long tưng bừng náo nhiệt hẳn lên. Một “ambiance francophone” đặc biệt diễn ra ở đây, làm cho chúng tôi – những giáo viên tiếng pháp không khỏi bồi hồi, vui sướng pha chút bâng khuâng nhớ về giảng đường đại học – Công trình khoa Pháptoà nhà B4, nơi mình đã học tập, vui đùa … Ai đã từng được sống và học tập ở đây lại có dịp kể về khoá mình, lớp mình, bạn mình. Nhanh thật đấy ! Khoa mình đã 50 tuổi rồi và chúng mình cũng trên dưới 50 cả rồi !
“Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ
Vô tư quá để bây giờ xao xuyến”
Những kỉ niệm về cuộc sống sinh viên thời bao cấp thật khó quên cứ tràn về, khiến tôi nhớ lại một thời đầy khó khăn, thiếu thốn nhưng cũng đầy ắp kỉ niệm và tiếng cười. Có lẽ khó có thể tin được ngày ấy “sinh viên” lại sống như thế. Các bạn ngoại trú ở Hà Nội may mắn có được cuộc sống sinh viên ở cùng gia đình nên các bạn chắc cũng chỉ biết một chút cuộc sống “đủ đầy” của các bạn nội trú thôi.
Gần đến ngày “Hội Khoa Pháp” xin được gửi đến các bạn nội trú K16 hai bài thơ khiến tôi sao xuyến nhớ lại để chúng ta cùng ôn một “thời” đam mê một “thời” giông tố - Để nhấm nháp lại “Cuộc sống sinh viên ngày xưa của mình”. Và cũng xin được gửi tới các bạn ngoại trú hai bài thơ “trên cả tuyệt vời” này để các bạn “đồng cảm” hơn nữa với chúng tôi, những người bạn đã “được sống” và “cảm nhận” cuộc sống ở khu “nhà lá” nội trú trường ĐHSPNN Hà Nội năm xưa.
*
*  *


1. Chuyện kể lúc về già …
Tác giả: Sinh viên nội trú ĐHSPNN[1]

Mong chóng về già kể chuyện cùng nhau
Về cái thời chúng mình đang sống
Đời sinh viên vui buồn mơ mộng
Ai đã qua rồi chắc gì dễ quên.
Mình sẽ quay về năm tháng ấm êm
Mái nhà tranh bốn giường tầng – bốn căn buồng hạnh phúc
Những đôi vợ chồng yêu nhau rất thực
Cũng ghen hờn bâng quơ …
Sẽ kể về những tối làm thơ
Mỗi người một câu, mỗi người một ý
Mẩu bánh mì nâng tâm hồn thi sỹ
Để cóc kêu ngơ ngác giữa vần
Mình cùng ôn lại những tháng năm
Cả bọn tuổi hăm mà phòng chẳng có khách
Đêm thứ bảy nghêu ngao ngồi hát
Mùng 8 tháng 3 mình lại tặng hoa mình
Đấy cái thời chúng mình gọi bình minh
Là tia nắng 8 giờ xuyên qua vách
Thể dục buổi sáng xem như nét gạch
Nối liền hai giấc mơ.
Con cháu sẽ nghe kể chuyện xa xưa
Cả bọn sáng nào cũng đồng thanh kêu đói
Trên thư viện nghe bụng gào dữ dội
Chút hành phi cũng gợi nhớ nhà.
Dù thời gian năm tháng lùi xa
Chắng thể quên những ngày sức ăn như rồng cuốn
Bữa super 1 giờ đêm cũng chưa muộn
Đơn vị đo bằng nồi bảy nồi ba.
Thuở ấy chúng mình cũng sống "xa hoa"
Ngày sinh nhật ăn toàn khoai với sắn
Một bữa cháo hành bàn dăm bảy bận 
Gạo ít, người đông, thêm nước lại đầy
Chúng mình đã sống bằng khối óc bàn tay
Bao sự hy sinh kể sao cho xiết
Từng tập thơ tình hiến thân vào bếp
Cho gạo trong nồi chuyển hóa thành cơm.
Mái tranh nghèo vất vả sớm hôm
Cũng nghĩa tình biến mình thành lửa khói
Mở một khoảng trời xanh cao vời vợi
Để đêm đêm chúng mình ngắm sao trời.
Thưở ấy đời đâu lặng lẽ trôi
Ta đã đi qua một thời sôi động
Nửa đêm còn cãi nhau về nhạc – thơ – cuộc sống
Để phòng bên nhắc nhở đấm thủng tường.
Ngày ấy cả phòng nghe nhạc Đặng Thái Sơn
Cũng đồng cảm với tâm hồn nghệ sỹ
Sột soạt suốt đêm chúng mình kéo nhị
Thương nhau thuốc DEF nối nhịp cầu.
Sau này về già kể chuyện cùng nhau
Ôn lại cái thời chúng mình đã sống
Đời sinh viên vui buồn mơ mộng
A sống qua rồi chắc gì dễ quên.

2. MÙA ĐÔNG SINH VIÊN

Trời rét lắm nên bọn em nằm chung
Cứ 2 đứa 1 giường anh ạ.
Đời sinh viên nghèo nên tấm chăn mỏng quá
Phải nằm chung thành lệ - mỗi mùa đông.
                   
Bạn em làm vợ - em làm chồng
Sợ anh hiểu lầm mà giận dỗi
Những cặp vợ chồng lấy nhau không cưới
Ăn ở  với nhau suốt cả mùa đông.

Đã là vợ chồng nên phải nằm chung
Cũng gối tay, cũng thì thầm to nhỏ
Cũng hơi ấm gần như ngọn lửa
Cũng nồng nàn như một thứ tình yêu.

Góp chăn vào nên ấm biết bao nhiêu
Khi cái rét khẳng khiu luồn qua cửa sổ
Ở bên nhau tình yêu chan chứa
Xa nhau rồi - nhớ mãi một mùa đông.

Chép lại kỉ niệm xưa - 11/2012
Bùi Thị Lý - Hạ Long



[1]     Chị Nguyễn Phương Thảo, cựu học sinh CNN, cung cấp thông tin tác giả bài thơ này là chị Thanh Chung

mardi 2 octobre 2012

NHỮNG BỨC CHÂN DUNG ĐẸP Ở KHOA PHÁP

Nguyễn Văn Trường
K16 (1982-1987)

Khóa 16 (K16) khoa Pháp chúng tôi nhập học chính thức ngày 18 tháng 10 năm 1982. Ngay từ những tháng, năm đầu tiên mới vào trường, tôi đã được nghe đâu đó những mẩu chuyện kể về những tấm gương thầy, cô khi còn là sinh viên đã khổ luyện thành tài, không ngừng phấn đấu trong học tập để rồi tốt nghiệp, được giữ lại Khoa giảng dạy, và trở thành những thầy cô mẫu mực, có chuyên môn cao và hết lòng vì sinh viên. Những mẩu chuyện kể ở mọi lúc, mọi nơi ca ngợi tính cách và tài năng của các thầy, cô được người kể, người nghe thật trân trọng và nể phục.
Năm nay - 2012 là năm kỷ niệm Khoa Tiếng Pháp tròn 50 tuổi và cũng là một mốc son đánh dấu tròn 30 năm ngày nhập trường và 25 năm ngày ra trường của K16. Chúng tôi đã có nhiều dịp về thăm lại giảng đường khoa Pháp năm xưa, gặp bạn bè cũ và các thầy cô kính yêu. Thật ý nghĩa biết bao ! tất cả chúng tôi cùng ngồi lại chắp nối những mẩu chuyện năm xưa để xem đó như những đường nét hoa văn nhiều sắc màu điểm tô thêm những bức "chân dung" đẹp của các thầy cô.
Những bức chân dung được khắc hoạ dưới đây chắc chắn chưa đủ tất cả các thầy cô đã dạy và theo sát K16. Tác giả Những bức chân dung đẹp ở Khoa Pháp mong được gặp lại ngày càng nhiều các thầy cô để được tiếp tục làm thêm nhiều bức chân dung đẹp nhân ngày Hội Khoa năm nay.

Chân dung Nhà giáo ưu tú Trần Thế Hùng

Ngay khi còn là sinh viên khoá 3 (1966-1971) của Phân khoa Pháp văn[1], tên tuổi của thầy Trần Thế Hùng đã gắn liền với một tập thể có nhiều tấm gương sáng siêng năng học tập, khổ luyện thành tài, để sau khi tốt nghiệp, được giữ lại khoa giảng dạy như các thầy: Nguyễn Khắc Thiệu, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Mạnh, Nguyễn Trọng Tân, cô Nguyễn Thị Liên và cô Bạch Thị Diệp.
Trong số các thầy cô được giữ lại khoa, nổi trội hơn cả là nhóm bốn thầy Thiệu-Thọ-Mạnh-Hùng. Tên của bốn thầy đã trở thành một thành ngữ Thiệu-Thọ-Mạnh-Hùng cho bao thế hệ sinh viên thuộc lòng trong những câu chuyện hay năm xưa và trên những diễn đàn học tập. Chuyện kể về thầy Hùng là từ một học sinh phổ thông cấp III Quảng Oai chưa hề biết "một từ tiếng Pháp bẻ đôi" đã chăm chỉ, siêng năng sớm tối "cày", "xới" tài liệu để trở thành thầy dạy lý thuyết tiếng đứng đầu khoa Pháp. Thầy Thiệu vốn bị nói ngọng nhiều âm khác nhau nhưng ngọng nhất là âm "l" thành "n", "n" thành "l", rất vất vả trong việc học ngoại ngữ nói chung và tiếng Pháp nói riêng. Ấy vậy mà thầy đã khổ luyện để hết nói ngọng, rồi trở thành một thầy giáo dạy ngữ âm nổi tiếng. Thầy Thọ, thầy Mạnh cũng chuyên tâm nghiên cứu, phấn đấu thành các thầy đầu ngành giáo học pháp. Xem ra, sứ mệnh của khoa Pháp là đào tạo giáo viên dạy tiếng Pháp mà bốn thầy đảm nhiệm các môn chính thống: ngữ âm (phonétique), ngữ pháp (grammaire), từ vựng (lexicologie), ba bộ phận cấu thành của ngôn ngữ học (La linguistique) và giáo học pháp (Méthodologie) thì các thầy được ví như bốn trụ cột - Tứ Trụ vững chắc, nâng đỡ một công trình kiến trúc "Sư phạm ngoại ngữ" thật quả không sai.

Các thầy "Bộ Tứ": Thiệu, Hùng, Mạnh, Thọ (từ trái sang)
Tiếng thơm Thiệu-Thọ-Mạnh-Hùng không chỉ còn trong phạm vi khoa Pháp mà đến cả giới nghiên cứu ngôn ngữ chuyên nghiệp ở Viện Ngôn ngữ như giáo sư Hoàng Tuệ, Nguyễn Tài Cẩn, Đoàn Thiện Thuật, Đỗ Hữu Châu, Cao Xuân Hạo… cũng đặt cho biệt hiệu "Bốn Tây con" bởi kết quả học tập rất cao và khả năng nghiên cứu ngôn ngữ rất chuyên nghiệp. Năm 1999, tôi chỉ nghe lỏm được biệt hiệu "Bốn Tây con" bền lề của một công trình sắp được xuất bản hồi ấy nhưng mãi đến gần đây, tôi mới mạnh dạn đem hỏi thầy Hùng. Thầy Hùng e dè và rất kiệm lời nói về mình:
"Bốn người chúng tôi khi được ở lại trường là phải tính ngay chuyện đi học ngôn ngữ. Chúng tôi có bảy năm, từ năm 1971 đến 1978 cắp sách theo học các thầy Thuật, thầy Cẩn, thầy Tuệ. Học là học đón đầu để vững chuyên môn và nghiên cứu, lấy ngoại ngữ làm công cụ nghiên cứu. Ngôn ngữ Việt và ngôn ngữ Pháp, hai ngôn ngữ hỗ trợ nhau. Cuối cùng, chúng tôi thi nghiên cứu sinh đỗ với điểm rất cao". 
Năm 1980, nhóm Thiệu-Thọ-Mạnh-Hùng tiếp tục lại gây tiếng vang về sức học mãnh liệt và phương pháp học nhóm ở Trường Đại học Tổng hợp Grenoble III (Cộng hoà Pháp) để lại có một biệt hiệu mới "Bộ Tứ" – La Bande des Quatre[2] do các giáo sư người Pháp và bạn bè quốc tế đặt cho từ đây. Chuyện kể rằng, năm 1980, Bộ Tứ Thiệu-Thọ-Mạnh-Hùng được học bổng đi Pháp học lấy bằng cao học[3], khi sang đến trường Grenoble, thời gian ôn thi chỉ còn đúng 15 ngày, trong khi các nhóm sinh viên trường khác họ đã sang học tập từ rất lâu, và đã học được rất nhiều. Các giáo sư Pháp nghĩ là rất khó khăn và khuyên cả nhóm bốn thầy bỏ kỳ thi này để đợi năm sau nhưng cả bốn thầy đều quyết tâm học, bằng cách xin tài liệu để học trên thư viện, học tối, ngày và học với phương pháp chia nhau học theo phần, mỗi người đọc một cuốn sách, xong thì phải thuyết trình trước cả nhóm phần mình đã học để cùng hiểu. Kết quả cuối cùng chỉ trong 15 ngày ấy, các thầy đã thi được với kết quả cao, đều đạt từ 12/20 điểm trở lên. Số điểm này là rất cao so với cả sinh viên bản địa và đã làm các giáo sư người Pháp và các bạn bè quốc tế ngạc nhiên, nể phục. Sau kỳ thi đó, cả nhóm bốn thầy được vợ chồng Giáo sư Dabène mời đến thăm nhà riêng, sự kiện này khiến các bạn bè quốc tế phải thốt lên và ghen tị "Bọn tao học ở bên này cả đời không được đến nhà giáo sư, thế mà…" - Thầy Hùng vui vẻ kể lại như hiểu ý của tôi muốn xác minh biệt hiệu "Bande des Quatre" trong câu chuyện năm xưa.
Với các biệt danh và biệt hiệu như "Tứ Trụ" hoàn toàn Hán, "Bốn Tây con" hoàn toàn Việt và "Bande des Quatre" lại hoàn toàn Tây đặt cho các thầy ở mỗi hoàn cảnh đều mang hàm ý hình tượng hoá, cụ thể hoá vai trò đồng đều và trách nhiệm của một thầy trong bốn và cả bốn thầy trong một đều đúng, đều hay. Cái hay, cái đẹp của bốn thầy là phát triển đồng đều. Cả bốn thầy có bằng cao học (Maitrise) do Pháp cấp sớm nhất khoa (từ 1981) và dàn hàng ngang tiến đều trên bước đường sự nghiệp. Tên tuổi và hình ảnh của bốn thầy được xem như là một hiện tượng đặc biệt của Khoa Pháp.
Đến nay, nhiệm vụ của Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Pháp không còn chỉ đào tạo giáo viên dạy tiếng Pháp như xưa nữa mà đã phát triển, mở rộng đào tạo nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau, nên Bộ Tứ xưa kia cũng phát triển theo các hướng khác nhau. Thầy Thọ phát triển lên lãnh đạo trường. Thầy Mạnh lãnh đạo trung tâm nghiên cứu của trường, rồi được đề bạt làm Trưởng phòng Đào tạo. Thầy Thiệu lên làm Phó phòng Nghiên cứu khoa học, hiện đang sống và công tác ở Cộng hoà Pháp. Chỉ còn mình thầy Hùng ở lại khoa.

Thầy Hùng (bên trái) dẫn đoàn đại biểu Quốc hội Pháp
đến thăm Khoa
Dẫu có thiếu vắng "đội hình", thầy Hùng cũng vẫn thể hiện một tinh thần làm việc độc lập rất cao. Thầy không ngừng nâng cao chuyên môn, biên soạn sách giáo khoa, tài liệu chuyên ngành. Năm nào, thầy cũng bận rộn làm đề thi, tổ chức các kỳ thi đại học, cao học và viết bài nghiên cứu khoa học. Thầy được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú Năm 1996. Nhưng rồi, phải đến năm 1999, thầy mới đăng ký đi làm tiến sĩ ở Lyon (Cộng hoà Pháp). Tháng 11 năm 2002, thầy bảo vệ thành công Luận án tiến sĩ với đề tài "Phản bác trong giao tiếp" (Réfutation dans le discours). Bốn năm sau (2006), thầy được phong hàm Phó Giáo sư. Thấy có vẻ hơi muộn, nhiều học sinh và đồng nhiệp nói vui: "thầy chỉ chăm lo và định hướng tương lai cho sinh viên mà quên làm luận án tiến sĩ của mình". Còn ở Pháp, các Giáo sư nói: "Người ta đi làm tiến sĩ để về lãnh đạo, còn trường hợp của ông thì lãnh đạo người rồi mới làm tến sĩ, làm để chi cho mệt".
Không chỉ giỏi chuyên môn, thầy Hùng còn là một trong những lãnh đạo khoa lâu năm, từ năm 1983, thầy được thứ trưởng Bộ Giáo dục Hồ Trúc kí quyết định bổ nhiệm làm Phó chủ nhiêm Khoa và từ năm 1990, thầy được bầu làm Chủ nhiệm Khoa.
Nhà giáo ưu tú TRẦN THẾ HÙNG
- 1966-1971: Sinh viên khoá 3 Phân khoa Pháp văn
- 1971: Tốt nghiệp, ở lại khoa giảng dạy lý thuyết tiếng.
- 1980-1981: Học cao học tại Grenoble III (CH Pháp) lấy bằng Maîtrise (Master I).
- 1987-1989: Học cao học tại Lyon II (CH Pháp) lấy bằng DEA
- 1996: Được Nhà nước phong danh hiệu "Nhà giáo ưu tú".
- 2000 – 2002: Học chương trình tiến sĩ tại Rouen.
- 2002: Bảo vệ thành công Luận án tiến sĩ với đè tài: Phản biện trong giao tiếp.
- Các công trình và bài viết: Sách giáo trình (04); Sách giáo khoa lớp 6-12 (06); Bài báo khoa học đăng tạp chí KH (10); Công trình nghiên cứu và đề tài NCKH (02).
Về gia đình riêng của thầy cũng là một trường hợp đặc biệt không có nhiều ở khoa Pháp. Vợ thầy là cô Phạm Thị Dung, trước kia cô cùng học khoá 3 với thầy. Ra trường, thầy được giữ lại khoa giảng dạy, còn cô làm việc ở Thông tấn xã Việt Nam. Năm 1978, cô xin chuyển về trường công tác, thầy và cô ở lại khu tập thể của trường. Có lẽ xuất phát từ cuộc sống của sinh viên nội trú kham khổ mà thầy cô đã trải qua nên thầy, cô rất thông cảm và rất yêu quý sinh viên. Chị Hà Tuyết Lan, sinh viên khoá 7 (1973-1978) tâm sự:
"Nhiều khi rỗi, hội con trai hay ra cái ao ở cổng trường mò ốc về cho vào xô luộc, rồi sang nhà cô Dung, thầy Trần Hùng xin ít muối về chấm […] Sau khi ra trường và được trở lại khoa học tiếp cao học, thấy tôi là giáo viên tỉnh nghèo, thầy Trần Hùng, cô Liên dạy miễn phí cho tôi ôn thi và học cao học 9, rồi thi đi Pháp. Tôi được như bây giờ là nhờ vào sự chỉ bảo ân cần và giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô nhiều lắm. [...] Thầy Hùng, cô Dung coi chúng tôi như người trong gia đinh nên thường ngày chúng tôi vẫn gọi tên thầy cô một cách quý mến, gần gũi vì thế cho đến nay, tôi mới biết tên đầy đủ của thầy Hùng dạy chúng tôi là Trần Thế Hùng và vợ thầy là cô Phạm Thị Dung".

Thầy Hùng (bên phải) và cô Dung chúc thọ thầy Nguyễn Văn Thụ
Đúng thế, tôi phải thú thật rằng, từ trước đến nay, tôi cũng chỉ nghe các thầy, cô và các anh chị khoá trên gọi thầy với hai chữ rất gần gũi và thân quen là thầy Trần Hùng, hoàn toàn không biết họ tên đầy đủ của thầy là Trần Thế Hùng. Có lẽ sau bài viết này các bạn tôi sẽ thấy thêm một điều thú vị đến ngỡ ngàng.

Trong gia đình thầy, một thành viên thế hệ thứ hai là Trần Quỳnh Hương, con gái của thầy hiện giờ cũng là giảng viên lý thuyết tiếng nhiều triển vọng. Cô giáo trẻ Quỳnh Hương đã hoàn thành chương trình cao học (DEA) tại Lyon II và đang viết Luận án tiến sĩ với đề tài "So sánh câu phủ định Pháp – Việt". Cuối cùng, một thành viên thuộc thế hệ thứ ba trong gia đình là cháu ngoại của thầy cô, cháu gái Nguyễn Trần Trang Linh cũng đang học chương trình Song ngữ Pháp-Việt ở trường THCS Đoàn Thị Điểm. Cả gia đình, ba thế hệ yêu mến tiếng Pháp, gắn bó với tiếng Pháp và đưa tiếng Pháp vào cuộc sống gia đình đến từng góc cạnh, đến từng thành viên.
Kết thúc bài viết này, tôi mới chợt nhớ rằng có ai đó đã nói giá trị của một con người sẽ thể hiện rõ nhất khi người ấy không còn nữa. Theo tôi, nhận định đó chỉ đúng một phần vì những gì mà tôi viết hôm nay về các thầy, cô giáo của tôi ở Khoa Pháp vẫn là hơi muộn, đáng lẽ phải được viết sớm hơn, mặc dù các thầy, các cô vẫn đang khoẻ mạnh, tinh anh.

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ BÀI VIẾT KHOA HỌC ĐÃ ĐĂNG CỦA THẦY TRẦN THẾ HÙNG

SÁCH, GIÁO TRÌNH
TRẦN THẾ HÙNG, Giáo trình Từ vựng tiếng Pháp, 2004, Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
TRẦN THẾ HÙNG, Ngữ pháp tiếng Pháp. Cú pháp câu, 2005, Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
TRẦN THẾ HÙNG, Dẫn luận ngữ dụng học hội thoại, Nhà in Trường ĐHNN, 1998.
TRẦN THẾ HÙNG, Ngữ âm tiếng Pháp, tài liệu sử dụng tại khoa NN và VH Pháp từ năm 2009.
SÁCH GIÁO KHOA
1. Tiếng Pháp 10 (Đồng tác giả) + Sách hướng dẫn, 1984, Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội, Hanoï, 144 pages.
2. Tiếng Pháp 11 (Đồng tác giả) + Sách hướng dẫn, 1985, Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội, Hanoï, 116 pages.
3. Tiếng Pháp 12 (Chủ biên) + Sách hướng dẫn, 1986, Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội, Hanoï, 124 pages.
4. Tiếng Pháp 10 Ban KHXH (Chủ biên), 1994, Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội, Hanoï, 236 pages.
5. Tiếng Pháp 11, Ban KHXH (Chủ biên), 1995, Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội, Hanoï, 236 pages.
6. Je parle vietnamien (Đồng tác giả), 1994, NXB LIKSIN, HOCHIMINH ville, 249 pages. (Sách dạy tiếng Việt cho người nói tiếng Pháp).
7. Tiếng Pháp 6 (Đồng tác giả) + Sách hướng dẫn, 2002, Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội, Hanoï, 128 pages.
8. Tiếng Pháp 8 (Đồng tác giả) + Sách hướng dẫn, 2004, Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội, Hanoï, 172 pages.
9. Tiếng Pháp 9 (Đồng tác giả) + Sách hướng dẫn, 2005, Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội, 136 pages.
CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC
1. "Vai trò của tranh ảnh trong việc giảng dạy ngoại ngữ", Kỷ yếu Hội nghị Khoa học, Đại học Ngoại ngữ, ĐHQG Hà Nội,1998, 4 trang.
2. "Tính đa kênh và vai trò của các yếu tố không lời trong giao tiếp hội thoại", Tạp chí Ngoại ngữ, số 6, 1999, 4 trang.
3. "Câu tiếng Pháp trong hoạt động giao tiếp", Tạp chí Khoa học, ĐHQGHN số 4, 8 trang.
4. "Lập luận và vấn đề giảng dạy lập luận", Actes du Séminaire Régional Asie-Paifique, 2004. 16 trang.
5. "Hành vi phản bác trong giao tiếp (qua cứ liệu tiếng Pháp)", Tạp chí Khoa học, ĐHQGHN số 4, 2004, 9 trang.
6. "Câu đơn và câu đơn đặc, biệt trong tiếng Pháp", Tạp chí Khoa học, ĐHQGHN số 2, 2005, 8 trang.
7. "Lập luận theo quan hệ nhân quả", Tạp chí Khoa học, ĐHQGHN số 4, 2005, 9 trang.
8. "Lập luận trong ngôn ngữ (Nghiên cứu trên ngữ liệu tiếng Pháp)", Kỷ yếu Hội nghị Khoa học lần thứ 26, Đại học Ngoại ngữ, ĐHQG Hà Nội, 2006, 12 trang.
9. "Lại bàn về Bổ ngữ chỉ tình huống", Kỷ yếu Hội nghị Khoa học của trường, 2011,.
10. "Encore, giá trị ngữ nghĩa và ngữ dụng", Kỷ yếu Hội nghị Khoa học của trường, 2012,.
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
TRẦN THẾ HÙNG, TRẦN QUỲNH HƯƠNG, Nghiên cứu lập luận bằng tiếng Pháp và ứng dụng vào việc giảng dạy tiếng Pháp cho sinh viên chuyên ngữ Việt Nam, đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia, Công bố năm 2005.
ĐỀ TÀI, DỰ ÁN, HOẶC NHIỆM VỤ KHCN KHÁC ĐÃ VÀ ĐANG THAM GIA VỚI TƯ CÁCH THÀNH VIÊN
Nghiên cứu đối chiếu câu Việt – Nga – Anh – Pháp – Trung, Ứng dụng vào việc giảng dạy ngoại ngữ cho đối tượng là người Việt Nam, ĐHQGHN, 2004 (Do thạc sỹ Nguyễn Văn Lợi làm chủ nhiệm đề tài).



NVT





[1]     Phân khoa Pháp văn, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội là tên gọi ban đầu khi mới thành lập năm 1962. Đến năm 1967, gọi là Khoa Tiếng Pháp, Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội và từ 1993 đến nay gọi là Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Pháp, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
[2]     Biệt hiệu "Bande des Quatre" ra đời lúc đó trùng với thời điểm lịch sử Trung Quốc có bốn nhân vật (Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên) thuộc nhóm cấp tiến có ảnh hưởng vô cùng rộng lớn ở Trung Quốc trong suốt một thập kỷ, kể từ khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu năm 1966. Hầu hết người dân Trung Quốc hồi ấy gọi bốn nhân vật này là "Bè lũ bốn tên" – Viết chữ Pháp cũng là "La Bande des Quatre". Có lẽ người Pháp đặt biệt hiệu này cho bốn thầy có hàm ý xem hiện tượng của bốn thầy khoa Pháp là rất phi thường.
      Tuy nhiên đối với tác giả bài này xin được đưa ra giải pháp (cá nhân) dịch sang tiếng Việt của "Bande des Quatre" là "Bộ Tứ" vừa sát nghĩa, vừa đúng hoàn cảnh của các thầy và hay hơn cách gọi của người
Trung Quốc.
[3]     Bằng Maîtrise, bây giờ gọi là Master I